*Tên gốc của bải báo “Antibody tests suggest that coronavirus infections vastly exceed official counts”

Vũ Đức CảnhTạ Đức Tùng (Thành viên VANJ) dịch và tổng hợp

Nghiên cứu ước tính số ca nhiễm coronavirus tăng hơn 50 lần so với số lượng chính thức, tuy nhiên các chuyên gia nghi ngờ về độ tin cậy của bộ Kit kháng thể.

Xét nghiệm kháng thể trên diện rộng ở một quận của bang California đã cho thấy tỷ lệ nhiễm coronavirus cao hơn nhiều so với số liệu chính thức được báo cáo. Phát hiện này cũng chỉ ra rằng virus này ít gây chết người hơn so với ước tính hiện tại khi dựa vào số ca nhiễm bệnh và số người chết toàn cầu. Nhưng một số nhà khoa học nghi ngờ về độ chính xác của bộ Kit xét nghiệm được sử dụng trong các nghiên cứu này bởi vì độ tin cậy của chúng chưa được đánh giá và kiểm chứng kỹ lưỡng.

Một nghiên cứu phân tích mẫu máu của khoảng 3.300 người sống ở quận Santa Clara vào đầu tháng 4 cho thấy cứ 66 người thì có một người nhiễm SARS-CoV-2. Trên cơ sở đó, các nhà nghiên cứu ước tính rằng khoảng 48.000 đến 82.000 trong số khoảng 2 triệu cư dân của quận đã bị nhiễm virus vào thời điểm khảo sát. Con số lớn này lớn hơn nhiều so với số lượng chính thức được báo cáo khoảng 1.000 người vào đầu tháng 4, theo nghiên cứu được đăng trên medRxiv. Tuy nghiên nghiên cứu này chưa được bình duyệt (peer-review). 

Nghiên cứu tương tự ở Đức đã xét nghiệm 500 người ở một thị trấn 12.000 người bằng phương phân tích kháng thể và phát hiện ra rằng một trong bảy người đã bị nhiễm SARS-CoV-2. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu này cũng sử dụng các xét nghiệm chẩn đoán PCR và khi các số liệu này được kết hợp với những người có kháng thể, ước tính tỷ lệ nhiễm bệnh của thị trấn là khoảng 15%. Tuy nhiên, kết quả này có thể không đại diện cho những gì xảy ra trên khắp nước Đức, theo nhà virus học Christian Drosten, người đứng đầu Viện Virus học tại bệnh viện đại học Charité ở Berlin, bởi vì nhiều người trong thị trấn đã tham gia lễ hội vào tháng Hai. Một điểm dịch lớn của thị trấn.

Nhiều khảo sát đang sử dụng bộ Kit xét nghiệm kháng thể thương mại để phát hiện kháng thể chống lại virus trong mẫu máu. Sự hiện diện của kháng thể đặc hiệu SARS-CoV-2 cho thấy một người đã bị nhiễm bệnh ít nhất một tuần trước đó, ngay cả khi họ không có triệu chứng. Khi kết hợp với thông tin về tuổi tác, giới tính, triệu chứng, bệnh nền và tình trạng kinh tế xã hội, khảo sát này có thể làm rõ hơn vai trò của trẻ em cũng như các trường hợp không có triệu chứng trong việc lây nhiễm. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng hầu hết các Kit xét nghiệm kháng thể chưa được kiểm chứng để có thể đảm bảo độ tin cậy.

SARS-CoV-2 nguy hiểm như thế nào?

Các khảo sát huyết thanh có thể đưa ra ước tính tốt hơn về mức độ nguy hiểm của virus, dựa vào tỷ lệ tử vong do nhiễm bệnh (IFR) – tỷ lệ của tất cả các ca nhiễm bệnh, không chỉ những trường hợp được xác nhận qua xét nghiệm lâm sàng, dẫn đến tử vong.

Nhóm nghiên cứu ước tính IFR cho quận Santa Clara là 0,1-0,2%, tương đương với khoảng 100 ca tử vong trong 48.000-82.000 ca nhiễm bệnh. Tính đến ngày 10 tháng 4, số người chết chính thức của quận này là 50 người. IFR của nghiên cứu thấp hơn IFR được sử dụng trong các mô hình của các nhà nghiên cứu tại Đại học Hoàng gia Luân Đôn, ước tính IFR cho Vương quốc Anh trên cơ sở dữ liệu từ Trung Quốc là 0,9%. Trong một nghiên cứu khác, IFR ước tính của Trung Quốc là 0,66% và nghiên cứu trên tàu du lịch Diamond Princess ước tính IFR là 0,5%. Sự chênh lệch trong các nghiên cứu trên có thể do sự phân bố tuổi độ tuổi và tỷ lệ xét nghiệm.

Eran Bendavid, nhà nghiên cứu về sức khỏe dân số tại Đại học Stanford, trưởng nhóm nghiên cứu Santa Clara cho biết, ước tính tỷ lệ tử vong đã được điều chỉnh thấp hơn theo thời gian do có nhiều người hơn được xét nghiệm. Qua đó, các nhà nghiên cứu cũng hiểu rõ hơn về các trường hợp mắc bệnh nhẹ, tương tự như đã xảy ra với đại dịch cúm lợn năm 2009.

Độ tin cậy của các Kit xét nghiệm

Các nhà khoa học lo ngại về độ tin cậy của các xét nghiệm kháng thể, đặc biệt là liên quan đến số lượng dương tính giả của phương pháp này, nó có thể làm tăng tỷ lệ nhiễm bệnh..

Nghiên cứu ở Santa Clara sử dụng một bộ Kit từ nhà sản xuất Premier Biotech, có trụ sở tại Minneapolis, Minnesota. Theo nhà sản xuất, bộ sản phẩm này có 2 dương tính giả trong số 371 mẫu âm tính thật.

Tuy nhiên, số lượng lớn các ca dương tính được báo cáo trong nghiên cứu – 50 trong số 3320 xét nghiệm – có thể là dương tính giả, Marm Kilpatrick, nhà nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại Đại học California Santa Cruz cho biết.

Để đảm bảo phương pháp xét nghiệm đủ nhạy để phát hiện nhiễm SARS-CoV-2 thực sự, cần phải đánh giá trên hàng trăm trường hợp dương tính với COVID-19 và hàng ngàn trường hợp âm tính, Michael Busch, nhà nghiên cứu và giám đốc bệnh truyền nhiễm của Viện nghiên cứu quan trọng ở San Francisco, California, người cũng đang dẫn đầu một khảo sát về tỷ lệ nhiễm bệnh qua xét nghiệm huyết thanh. Nhưng hầu hết các bộ Kit chưa được kiểm tra kỹ lưỡng và các cơ quan y tế đặc biệt lo ngại về tính chính xác của một số Kit xét nghiệm nhanh này, Busch nói.

Các nhà nghiên cứu tham gia vào nghiên cứu ở Santa Clara nói rằng họ đã đánh giá độ nhạy và độ đặc hiệu của xét nghiệm kháng thể trong 37 mẫu dương tính ban đầu và 30 mẫu đối chứng âm tính. Các xét nghiệm xác định 68% mẫu dương tính và 100% âm tính. Trong một đánh giá khác chưa được công bố khi thử với 30 mẫu kiểm soát dương tính và 88 mẫu kiểm soát âm tính cho thấy phương pháp này đã xác định chính xác 28 mẫu dương tính và tất cả 88 mẫu âm tính, theo Bendavid.

Kilpatrick cho rằng việc tuyển người tham gia khảo sát qua mạng xã hội cũng ảnh hưởng lớn đến kết quả nghiên cứu vì những người này nghĩ rằng họ có nguy cơ nhiễm bệnh và tình nguyện đi xét nghiệm, ông nói. Tỷ lệ nhiễm bệnh thực sự có thể chỉ bằng một nửa, hoặc bằng một phần mười so với nghiên cứu này – Chúng ta không thể lường trước được hết những yếu tố ảnh hưởng khi người tham gia được tuyển chọn qua Facebook, ông nói. 

Đã nhiễm bệnh không có nghĩa là miễn nhiễm

Theo một số nghiên cứu, người mắc SARS-CoV-2 sau khi hồi phục sẽ tự sản sinh ra kháng thể trung hòa (neutralized antibody) để giúp cơ thể tự phòng vệ đối với virus COVID-19. Theo nghiên cứu (chưa qua bình duyệt) của Peking Union Medical College, thời gian có hiệu lực của miễn nhiễm này được cho là có thể kéo dài từ 1 đến 3 tháng sau khi bị nhiễm lần đầu. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào cho biết thực sự thời gian có hiệu lực của miễn nhiễm là bao lâu.

Ở Mỹ, hiện đang có một số đề xuất về việc phát hành “giấy chứng nhận miễn dịch” (immunity passport) cho những người đã hồi phục sau khi nhiễm COVID-19. Đây được coi là một cách để mở cửa lại nền kinh tế. Những đề xuất này cho rằng xét nghiệm kháng thể có thể được dùng để khẳng định tình trạng miễn nhiễm đối với SARS-CoV-2 của một người. Chưa tính tới việc miễn nhiễm có thực sự kéo dài được hay không, độ chính xác của các bộ Kit xét nghiệm kháng thể đang là rào cản lớn cho những đề xuất này. Ngoài ra, theo một nghiên cứu khác xuất bản trên Nature (Wölfel, R. et al.), ngay cả khi kháng thể được sản sinh ra, có bằng chứng cho thấy người bệnh dù đã khỏi bệnh vẫn có khả năng lan truyền virus.

Tổng hợp từ Nguồn:

https://www.nature.com/articles/d41586-020-01095-0

https://www.nature.com/articles/d41586-020-01115-z